Soạn Giả
: Hương Chiều
Đoạn Cuối : - Nguyễn Kiều Tế Đoàn Thị Điểm
Nguyễn Kiều (ai oán, kể lể)
Đoàn Nương ơi !
Nương Tử ....chi tài
Hãn Kim...khoáng cỏ (ai oán)
Cớ sao trời xanh....đã ban cho Nàng tài sắc dường
kia
Lại đành tâm...thúc thu... đường phúc phận (ngưng một chút) (khóc nghẹn) Tội nghiệp cho Nương Tử của
Ta !
Yên nghỉ không có chỗ
Nối dõi cũng không con
.... Ngoài ba mươi tuổi mới lấy chồng (khóc)
Hơn bốn mươi tuổi đã tạ thế... (giọng não nùng)
(Thủy
Lan trở ra với hương đèn – Nàng bày biện lên bàn ... Nàng đưa tay chậm nước mắt
– Nét mặt bi thương)
-
Lúc tai gia nổi tiếng sắc
tài
-
Cha đã mất, anh cũng dạo
chơi miền chín suối
Tấm hường nhan phải phương trời trôi nổi
Nuôi Mẹ già Chị góa với con côi
Chân yếu tay mềm, nghề xảo thủ tinh khôi
Hốt thuốc, dạy học trò, thêu đan lại thêm nghề dệt nhuộm
(ngừng một chút, thương tiếc rơi lệ)
-
Lúc tòng phu tề gia chu
đáo
-
Trên dưới thuận hòa
-
Phẩm hạnh đoan trang
-
Hết thảy tì thiếp mến
thương
-
Đến cả con chồng đều kính
phục (Trích Văn Tế của Nguyễn Kiều) (Bản Nôm của Trúc Khê dịch)
-
(Khóc) Hiền thê ! Hiền
Thê ơi !
Thúy Lan: (nghẹn ngào) Kiều Đệ Em !
“Niềm
chinh phu... Tỷ từng thấy rõ
Mọi
bề trung hiếu”...Điểm muội cũng đã vẹn tròn (372 CPNK)
Nhưng
nay ! Nhìn Kiều Đệ cố nén giọt lệ rơi.Lòng Tỷ đau như ai vò ai xé. (vừa than khóc vừa thắp hương, nàng đưa ba
nén hương cho Nguyễn Kiều, giọng ai oán)”
“Khói
mù nghi ngút ngàn khơi
Con
chim bạt gió... lạc loài kêu sương” (283-284 CPNK)
Vọng
Cổ
Nguyễn Kiều
(ngậm ngùi đốt hương – giọng bi thiết )
-
Rao
(giọng ai oán)
Hiền
thê ôi ! ... Ta thắp ba nén nhang thơm để tạ tình tri kỷ
Nàng
hãy nương theo hương khói trước linh sàng...về chứng giám cho ta (nức nở)
Khi
dong thuyền trẩy trấn tận miền xa...
Ta
thầm van vái cho ngày tháng trôi qua ..được thuận bườm xuôi gió ...
-
Lòng những mong thuyền
tình đổ bến yêu thương ta sẽ cùng nhau tiếp nối cuộc tương....
Vọng Cổ 1
....phùng.
Trời nổi phong ba cho cát bụi não nùng
Sáu
năm phu thê mà chỉ có ba năm gần gũi.
Lầu
Hoa, Gác Nguyệt chưa thỏa tình... tương ngộ trăm năm
Theo
lệnh Vua truyền ta nhậm chức ở Nghệ An
Nàng
đã cùng ta lênh đênh trên dòng thu lạnh
Trăng
dõi dõi soi chung bóng đôi đầu
Ai
có ngờ đâu??.. Hôm nay Ta khóc người Thiên Cổ... (Đàn)
Thủy Lan
(nức nở, khuyên lơn)
Kiều
Đệ Em ! Người đã đi rồi, còn lại đây là di vật của Đoàn Nương.
Nàng
đã dặn dò Tỷ trao lại cho Kiều Đệ Đệ
(Nàng
bưng chiếc tráp đựng di vật)
Đây
chiếc gương xưa , thanh lược cũ...và chiếc túi thêu Lý Bạch..(khóc nghẹn)
Vọng Cổ câu 2
Nguyễn Kiều
Đoàn
Nương ơi ! Ta gọi tên Em qua dòng suối lệ
Gương
lược vẫn còn đây... sao người ngọc đâu rồi ?
Vách
quế đìu hiu gió lộng tơi bời
Em
đã ra di – Ôi ! Trăng tàn sao lặn
Anh
não nề trong chia biệt thảm thương
Ngọn
nến tan theo giọt lệ rơi rơi
Nén
hương tàn...tấm thân Em đà giá lạnh
Mai
trúc đôi nơi... có còn ai để chờ để đợi
Hiền
thê ơi ! Kể từ bây giờ... lịm tắt những ngày vui.
Phụng
Hoàng (4 câu)
Em
đã ra đi bỏ lại trần gian
Một
chiếc bóng ngậm.. ngùi
Hiền
thê ơi hãy cùng ta cạn chén đêm này
Hiền
thê ơi! Ta Tế Nàng với dòng tâm lệ
Trong
hư ảo mơ màng
Em
về lại thăm Ta
Nửa
tỉnh nửa say
Ta
như bềnh bồng trên con thuyền mộng
Mình
kề vai nhau tay ai nâng chén rượu đào
Thôi
! gà eo óc xa xa
Trống
tiêu dồn ...giục giã đêm tàn.
Vọng
Cổ (6 Xề)
Đoàn
Nương ơi ! Thôi đành vĩnh biệt
Một
Lá thuyền Tang... xuôi trở lại quê nhà.(-)
Ta
tẩn liệm theo đây, chiếc túi da cẩn thêu đôi dòng thơ Lý Bạch...
Như
lời Nàng nhắn nhủ cùng Ta:
“Đãn
Sử Chủ nhân nặng túy khách
Bất
Tri Hà Xứ Thi...Tha Hương”
(khóc thương trong tiếng
cười buồn).
Dứt vọng cổ.
Thủy Lan:
Kiều Đệ Em ! (khóc trong tiếng khóc cười
của Nguyễn Kiều)
(Nguyễn Kiều đau khổ, ôm đầu, vừa rót rượu vừa lẩm bẩm):
“ Chủ nhân cứ mãi chuốt
chén ngà
Khách say... chẳng biết
quê nhà nơi nao...” ?
(Cười nửa say nửa tỉnh...với
tâm trạng đê mê đau khổ cùng cực)
Thúy Lan
(nức nở)
Kiều
Đệ ơi! Điểm Nương đã về nơi gió cát. Đệ
đã cùng Tỷ chia sớt nỗi tan tác chia lìa –
Ôi
! “”Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu
Thà
khuyên chàng đừng chịu tước phong? (297-298)
Nguyễn Kiều
(ngậm ngùi nhìn chiếc túi thêu như hiểu
thấu lời dặn dò của Đoàn Nương – chàng ôm vào lòng rồi than thở)
Ôi
! Mạng số vô thường ! ...
Một
mình ta trăn trở giấc hoàn lương
Thủy
Lan Tỷ Tỷ ơi ! (giọng bi thương, nghèn
nghẹn)
Thủy Lan
(cố nén tiếng khóc) Ơi ! Có Tỷ đây ! Tỷ đây nè !
Nguyễn Kiều:
Tỷ Tỷ hãy giúp Em cùng tùy tùng đưa linh cửu của Đoàn Nương trở về Phú Xá...
Hãy
cho người báo tang với Mẹ và Chị Dâu ở tận quê nhà.
Tất
cả phải tế tang Nàng một tháng.
Tỷ
nhớ giúp Em nghe Tỷ Tỷ (nghẹn khóc )
Thủy Lan
(sướt mướt):
Được
– Tỷ hứa ! Tỷ sẽ chu toàn mọi viêc cho em ! Kiều Đê Đê !
Nguyễn Kiều
(loạng choạng ngồi xuống ghế - hai tay vuốt
mặt khóc)
Than
ôi ! Nửa bước khó rời Trấn Sở
Một
thân khó vẹn công tư (Văn Tế)
Thủy Lan
(Quệt nước mắt... giọng ai oán)
Hỡi
ơi ! Đào chưa chín đã vội khô !
Quế
đang thơm mà đã rũ ! (Văn Tế của Nguyễn Kiều)
Nguyễn Kiều:
Giờ chỉ còn lại một mình Ta.
Ta
sẽ chôn chặc nỗi sầu nơi biên trấn Nghệ An,
Chiếu
Kính Họa Mi – Hồng Hà Nữ Sĩ...(cầm lấy di
vật của Đoàn Nương nghẹn ngào) Hiền Thê ơi ! Hiền Thê ơi
Thúy Lan (khóc):
Điểm Muội ! Điểm Muội em !
-( Đàn –Trống – Chia Biệt
)
HẾT
Hương Chiều
– Bản Sơ
Khởi năm 2003.
(Bản tuồng chỉnh soạn lại năm 2006 cuối Đông – Hoàn
tất cuối tháng Tư năm 2009)
Lời Cuối: “Người
phụ nữ Việt Nam không những chỉ có mặt và đóng góp vào lịch sử dựng nước giữ nước
mà còn để lại cho chúng ta những đóng góp về văn học. Bà Đoàn Thị Điểm đã đưa
ra một mẫu người phụ nữ mới: là một lương y – và là một nhà giáo mẫu mực, mang
đến cho thế hệ sau nhiều kẻ sĩ thành danh (Đào Duy Doãn – Tiến Sĩ 1763)
v.v..... Bà là người phụ nữ mở trường dạy học đầu tiên – hiển nhiên việc làm đó
đã lưu lại đời sau – đó là giá trị của người phụ nữ,”
Phần nhận định nầy, được
trích từ lời kết của bài biên khảo “Hồng Hà Nữ Sĩ” của Kim (Giáo Sư Nguyễn Kim
Khải đã đăng trong Đặc San PTG- ĐTĐ Cân Thơ 2008 – Adelaide – Úc Châu) –Ngày
22/03/2008 .
-
Chúng em trân kính tri
ân
Thầy Thuần Phong đã để lại quyển Giảng Huấn “Chinh
Phụ Ngâm Khúc” – Một tư liệu nghiên cứu quý giá về Cuộc đời – Thân Thế Sự Nghiệp
Văn Chương của Bà Đoàn Thị Điểm.
- Chân thành cảm ơn Anh LTHT, người bạn thân với
chúng tôi lúc còn đang học PTG và Đại Học Cần Thơ, người đã tặng cho chúng tôi
nhiều quyển sách Cổ Xưa giá trị - trong đó – quyển “CPNK Giảng Luận” nầy được
Anh cho là Di vật của cha Anh – Ông LTC –
- Chân
thành cảm ơn Tác Giả Kim (Giáo Sư Nguyễn Kim Khải – Melbourne) về bài viết
“HHNS”- Nhờ thế , chúng tôi lại biết được thêm một bài Văn Tế (lúc Hạ Huyệt) của
Nguyễn Kiều Tế Bà Đoàn Thị Điểm.
- Sau cùng chân thành cảm ơn tất cả các
Anh Chị cùng góp công, góp sức, hết lòng trong các vai diễn (NL, LQ, Chi B.E)
và “Nhà Tôi” đã gian nan mọi bề để “O giọng xuống “hò” một câu vọng cổ” !!
Chúng tôi đã thực sự rất hạnh phúc, đã cùng nhau chèo chống bơi ngược dòng sông
300 năm cũ, nghiêng mình diện kiến một Bậc Nữ Lưu “Hãn Kim Khoáng Cổ !” - Đoàn Thị Điểm –
Hương
Chiều
PHỤ LỤC
Văn Tế - NGUYỄN KIỀU
(Ông Nguyễn Kiều Tế Bà Đoàn Thị Điểm (1705 – 1746 )
Bảo vụ tinh huy,
Văn Giang chung tú:
Nương tử chi tài,
Hãn kim khoáng cổ
Hồ thiên tích dĩ tài nhi bạc kỳ đức,
Giả dĩ danh nhi sắc kỳ thọ da ? ..
Cạnh hung- từ ư Tô Nữ,
Kế tuyêt- bút ư Ban-Khanh:
Huy hào đề cảnh,
Vô hạn thốn tinh
Hoài cổ tác truyện,
Khả cảm u linh.
Hiển cưu chế- thắng chi tích,
Biểu tân trinh--liệt chi danh:
Ngụ chân-tung vu Vân-Cát Thần-Nữ,
Thuật nhàn-tình vu Đối Thoại Yến Anh..
Nhân bách thân hề nan tục,
Hận thiên cổ hề mỹ cùng.
Bỉ xuẩn-bà ngoan phụ, hạc phát long chung,
Hà tài-hoa chi độc bộ, nãi phúc lôc chi bất sùng ?
Ninh cư vô sở,
Tự tục vô đồng.
Tam-thập dư nhi giá,
Tứ-thập dư nhi chung
Tàng âm-dung ư nhất hướng
Phó tài -nghệ ư nhất không
Khí từ-thân chỉ dữ lão,
Di cô-điệt chi thương mông.
Phi thiên mệnh chi vô thường,
Tạo-vật chi bất công da ?
Thất ngẩu chi phu,
Trường hu đoản thán,
Thốn kết sầu tràng,
Sông thùy lệ nhãn,
Gia-sự duy phồn,
Hà nhân chiếu quản?
Nội hạnh hoặc khiên,
Hà nhân qui gián ?
Thi dục lố hề thùy dữ bình ?
Thư dục quan hề thùy dữ bạn ?
Thu hữu nguyệt hề thùy dữ du ?
Xuân hữu cảnh hề thùy dữ ngoạn ?
Ta nhất duệ hề lưỡng lộ phân,
Khái lục tải hề tiền duyên đoạn.
Hoan thiểu hề sầu đa,
Tài trường hề mệnh đoản.
Nguyễn Kiều
Dịch Nôm
Sao bảo vụ sáng ngời,
Hạt Văn-Giang kết đọng khí tinh tú:
Cái tài của nương-tử,
Thật từ xưa đến nay hiếm có:
Cớ sao ông trời ban cái tài lại thu rút phúc...phận,
Cho cái danh lại dè xẻn tuổi thọ đến du ?..
Ganh lời văn mạnh-mẽ với nàng ho Tô (Tô Tiểu Muội)
Nối ngọn bút đã dứt của nàng họ Ban (Ban Chiêu):
Vẫy ngòi lòng mà đề-vịnh phong cảnh,
Thật là chứa-chan những tình,
Hoài nhớ người xưa mà làm chuyện,
Có thể cảm thông đến cõi linh sảng.
Làm tỏ cía dấu tích chế.. thắng cũ,
Làm nên cái tiếng tăm trinh liệt mới,
Ngụ cái chân tung của mình ở chuyện Vân-Cát Thần-Nữ,
Giãi cái nhàn tình của mình ở chuyện Yến-Anh Đối Thoại...
Người dẩu trăm thân cũng khôn chuộc,
Hận đến nghìn đời cũng chẳng cùng:
Kia những người đàn bà ngu-bướng người ta thường sống
lâu tuổi hạc da mồi:
Cớ sao người tài hoa tột bực như dường nầy, mà phúc
lộc lại rất mỏng-manh ?
Tội
nghiệp thay nương tử:
Ở yên không có chổ,
Nối dõi không có con:
Ngoài ba mươi tuổi mới lấy chồng,
Hơn bốn mươi tuổi đã tạ thế.
Vùi âm dung ở một chổ,
Ném tài nghệ vào khoảng không:
Trốn bà từ mẫu đã già,
Bỏ mấy cháu côi còn dại.
Há chẳng phải là mệnh trời không thường.
Mà tạo vật không công hay sao?
Luống để cho người chồng góa-bụa,
Thở ngắn than dài,
Ruốt sầu đau thắt,
Mắt lệ tuôn rơi,
Việc nhà đương bề bộn,
Ai người trông nom ?
Cư-xử có lỡ lầm,
Ai người ngăn bảo?
Thơ muốn làm cùng ai bình-phẩm ?
Sách muốn xem cùng ai bạn bầy?
Mùa thu có trăng cùng ai chơi?
Mùa xuân có cảnh cùng ai ngắm?
Than ôi! Đường
chia hai ngả,
Duyên dứt sáu năm,
Vui ít sầu nhiều,
Tài dài mệnh ngắn.
Trúc
Khê dịch
Căn
cứ vào câu nầy, Tang Thương Ngẩu Lục (tr. 88) của Trúc Khê dịch và các bản
Chinh Phụ khác nói Bà Đoàn Thị Điểm thọ đến ngoài bảy mươi là sai.